Thứ Tư, 30 tháng 9, 2015

20 năm tiền lương và 3 lời khuyên



Một cặp vợ chồng mới kết hôn rất nghèo và sống trong một nông trại nhỏ. Một ngày, người chồng nói với vợ:
“Em yêu, anh sẽ rời ngôi nhà này… Anh sẽ phải đi rất xa, rất xa, tìm một công việc, rồi làm thật chăm chỉ để có thể trở về và cho em một cuộc sống đầy đủ mà em luôn xứng đáng. Anh không biết đôi ta sẽ biệt ly bao lâu, vì vậy anh chỉ đòi hỏi em một điều này thôi: Hãy đợi anh. Khi anh không còn ở đây, em hãy giữ tấm lòng son, hãy bảo toàn sự thủy chung, bởi anh cũng sẽ như vậy với em.”

Sau đó, người chồng rời đi. Ngày lại ngày trôi qua, anh đã đi một quãng đường rất rất xa, cho đến khi gặp một lão nông bên đường. Ông lão cũng đang cần tìm người phò tá mình. Chàng trai trẻ bước đến và tỏ ý muốn trở thành người hầu cận giúp đỡ ông mỗi ngày. Ông lão chấp nhận, sau đó, họ cùng thảo luận với nhau. Anh nói:
“Hãy để tôi làm việc chừng nào tôi còn có thể, và khi tôi nhận thấy đã đến lúc phải trở về cố hương, xin hãy để tôi đi. Tôi không muốn nhận một đồng lương nào trong lúc này – ngài vui lòng giữ lại giúp tôi cho đến ngày tôi rời đi. Vào ngày ấy, xin hãy đưa lại cho tôi toàn bộ số tiền ấy”.
Họ cùng đồng ý với thỏa thuận này. Và thế là người chồng làm việc trong nông trại của ông lão trong suốt 20 năm – không có ngày lễ, và cũng không có ngày nghỉ ngơi. Thấm thoắt 20 năm đã trôi qua, anh đến gặp ông chủ của mình và nói:
“Thưa ngài, đã đến lúc tôi cần phải trở về nhà, xin ngài hãy gửi lại tôi số tiền lương trong những năm qua”.
Ông chủ của anh trả lời:
“Tốt lắm! Sau cùng, ta đã có thỏa thuận với anh và ta sẽ giữ lời. Tuy nhiên, trước khi anh đi, ta muốn anh hãy cân nhắc điều này: Hoặc là ta sẽ trả lại anh tất cả số tiền và để anh đi; hoặc ta sẽ cho anh 3 lời khuyên và để anh đi. Nếu anh chọn túi tiền, ta sẽ không cho anh 3 lời khuyên ấy; và ngược lại, nếu anh chọn lời khuyên, ta cũng sẽ không đưa tiền cho anh. Bây giờ, chàng trai, hãy trở về phòng và suy nghĩ trước khi cho ta biết quyết định của mình”.
Sau hai ngày suy nghĩ, anh quay lại và nói với ông chủ:
“Thưa ngài, tôi muốn nhận 3 lời khuyên của ngài”.
“Đừng quên rằng, nếu ta cho anh 3 lời khuyên này, ta sẽ không đưa tiền cho anh. Anh còn băn khoăn điều gì không?”
“Thưa ngài, tôi muốn nhận 3 lời khuyên…”
Sau đó, ông chủ nói với anh:
“Một là: Đừng bao giờ lựa chọn đường tắt trong cuộc đời. Những con đường nóng vội có thể tiềm ẩn mối hiểm họa khôn lường!
“Hai là: Đừng bao giờ quá hiếu kỳ, bởi cái giá cho hiếu kỳ có thể là quá đắt… “Ba là: Đừng bao giờ quyết định trong cơn nóng giận hay trong lúc tuyệt vọng, bởi những quyết định mù quáng sẽ khiến anh phải hối hận muộn màng.”
Tiếp đó, ông chủ đưa cho anh ba chiếc bánh mỳ và nói:
“Đây là 3 chiếc bánh mỳ dành cho anh: Hai chiếc trên đường, còn chiếc cuối cùng để anh thưởng thức cùng vợ mình khi trở về nhà”.

Tạm biệt ông lão, người đàn ông lên đường trở về. Con đường 20 năm cách trở trải dài ra trước mắt. Anh hồi hộp mong chờ đến giây phút đoàn tụ với người vợ ở quê nhà.





Sau ngày đầu tiên, anh gặp một hành khách trên đường. Người lạ mặt nói:
“Chàng trai, anh đang đi đâu thế?”
“Đến một nơi rất xa, cách đây 20 ngày đường nếu tôi tiếp tục đi về hướng này”.
Người lạ mặt lại nói:
“Ồ, anh bạn trẻ, đường sẽ rất dài và xa xôi! Tôi biết có một ngã rẽ khác giúp anh sớm trở về nhà”.
Anh hăm hở bước theo con đường mới này. Nhưng rồi sau đó, chợt nhớ lại lời khuyên đầu tiên của ông lão, anh bèn quay trở lại con đường cũ lúc đầu. Nhiều ngày sau đó, anh vô tình biết rằng đoạn đường tắt hôm trước có rất nhiều đạo tặc mai phục.
Nhiều ngày nữa lại trôi qua, anh may mắn tìm thấy một nhà nghỉ ven đường. Anh dừng chân dùng bữa tối rồi ngủ một giấc dài… Đến nửa đêm, anh chợt tỉnh giấc vì nghe thấy tiếng la hét thất kinh bên ngoài phòng trọ. Anh bước ra khỏi chăn và toan mở cửa xem điều gì đang diễn ra. Bất giác, anh nhớ lại lời khuyên thứ hai nên nén nỗi tò mò và quay trở lại giường.
Sáng hôm sau, khi dùng điểm tâm, người chủ nhà trọ hỏi rằng, liệu anh có nghe thấy tiếng la hét thất thanh đêm qua không. Anh đáp lại là có. Ông bèn hỏi tiếp:
“Anh không tò mò xem chuyện gì đang xảy ra sao?”
“Không, không hề!”
“Thật may mắn, anh là vị khách đầu tiên có thể sống sót mà rời khỏi đây. Trong làng chúng tôi có một con quỷ. Ban đêm, nó thường la hét để gây sự chú ý. Bất kỳ ai nghe thấy tiếng hét mà chạy tới đều sẽ rơi vào nanh vuốt con quỷ này…”

Anh lại tiếp tục cuộc hành trình của mình. Càng gần tới cố hương, anh lại càng hồi hộp và vui sướng. Ngày lại ngày, đêm lại đêm, đôi chân anh đã mệt mỏi rã rời. Cuối cùng anh cũng thấy thấp thoáng ánh lửa bập bùng trong túp lều thân quen.
Bầu trời đã tối lắm rồi, mà mái nhà của anh vẫn còn một quãng dài phía trước. Qua khung cửa sổ, anh thấy bóng dáng người vợ hiền mà anh luôn yêu tha thiết. Nhưng kìa, nàng không ở đó một mình mà còn xuất hiện một gã đàn ông nào đó… Nàng vuốt tóc hắn ta, có vẻ hai người rất tình cảm bên nhau.
Hình ảnh trước mắt khiến trái tim anh tan vỡ và cay đắng. Trong lòng anh sục sôi một nỗi tức giận và tủi nhục. Anh chỉ muốn chạy ngay đến để trút nỗi giận này. Nhưng rồi anh hít một hơi thật sâu để bình tĩnh lại khi nhớ đến lời khuyên thứ ba.
Anh dừng chân và quyết định ngủ lại bên ngoài. Nằm trên bãi cỏ giữa núi đồi và ngắm nhìn sao trời, anh tự nhủ sẽ chờ đến sáng mai.

Khi ánh bình minh ló rạng cũng là lúc anh lấy lại hoàn toàn bình tĩnh. Anh nói với chính mình:
“Ta sẽ không làm hại vợ ta và người tình của nàng. Ta sẽ trở lại bên ông chủ và yêu cầu ông chấp nhận ta làm việc thêm lần nữa. Nhưng trước khi lên đường, ta muốn gặp nàng để nói rằng ta vẫn luôn thủy chung với nàng…”
Anh ngập ngừng gõ cửa… Khi vợ anh mở cửa, cô đã òa lên hạnh phúc và ôm chầm lấy anh. Anh chỉ nhỏ nhẹ:
“Anh luôn một lòng một dạ với em, nhưng tại sao em lại phản bội niềm tin ấy?”
Lời kết tội như làm trái tim thắt lại, cô nói:
“Làm sao em có thể phản bội anh? Em không bao giờ làm điều gì trái với lương tâm mình. Em đã kiên nhẫn đợi chờ anh suốt 20 năm qua…”
“Vậy còn người đàn ông bên cạnh em đêm qua? Anh ta là ai chứ!”
Đến lúc này, cô mới mỉm cười:
“Đó là con trai chúng ta! Khi anh rời đi, em mới phát hiện rằng mình mang thai. Đến nay, con chúng ta đã 20 tuổi rồi”.

Những lời nói ấy như dòng suối mát lành cuốn trôi nỗi buồn lo trong lòng anh. Anh cầu xin cô tha thứ, rồi bước vào phòng gặp người con trai anh chưa từng biết mặt. Sau đó, cả gia đình đoàn tụ trong bữa sáng mà vợ anh mới chuẩn bị. Anh lấy ra chiếc bánh mỳ cuối cùng và đặt lên bàn.

Khi cắt bánh mỳ làm ba phần đều nhau, anh bất ngờ khi nhìn thấy toàn bộ số tiền lương của 20 năm qua được giữ kín trong đó. Số tiền không chỉ là 20 năm mà còn vượt xa gấp nhiều lần.
Thiêng Liêng cũng giống như ông chủ trong câu chuyện kể trên. Khi yêu cầu chúng ta cống hiến, ngài còn dành tặng chúng ta nhiều hơn những gì ta đã làm. Ngài muốn những đứa con của ngài có được trí huệ sáng suốt, và có cả những phúc lành xứng đáng…

(Sưu tầm)
Hồng Liên biên dịch

Nhân quả công bằng


           

Đôi khi bạn cảm thấy cuộc đời này thật bất công! Bạn cho đi nhiều mà không nhận lại được bao nhiêu... Nhưng thực ra thì khi bạn cho đi là bạn đã nhận được nhiều hơn thế, đó là những niềm vui vô hình mà bạn không chạm vào được.
Khi bạn cho đi những điều tốt đẹp thì bạn sẽ nhận được sự bình yên trong tâm mình. Bạn phải hiểu rằng cho đi không có nghĩa là toan tính, bạn càng tính toán thì bạn lại càng cảm thấy bị dồn nén, khi ấy bạn vừa phải cho mà vừa không được nhận niềm vui vô hình từ chính bản thân cái cho đi của bạn....

BẠN MUỐN THẤY VIÊN NGỌC QUÝ CỦA CHÍNH MÌNH THÌ ĐỪNG VỌNG NGOẠI TÌM CẦU.... DỪNG LẠI LẮNG ĐỘNG THÂN TÂM NHÌN VÀO NỘI TÂM ... THAY ĐỔI THÁI ĐỘ , HÀNH VI, LỜI NÓI, Ý NGHĨ, VIỆC LÀM..... VÔ SI ,VÔ SÂN, VÔ THAM THÌ KHÔNG CÒN KHỔ ĐAU, PHIỀN NẢO. ... KHÔNG KHỞI NIỆM TÁC Ý LIỀN ĐÓ LÀ NIẾT BÀN. VÌ CÁC PHÁP VỐN LÀ CHÂN NHƯ.....

HỒI ĐẦU THỊ NGẠN... QUAY LẠI LÀ BỜ....


Trong cuộc sống khi ta quan sát thấy nhan nhãn trước mắt là thế nên ta khẳng định suy nghĩ như vậy không sai nhưng sẽ cạn cợt, thấy bề nổi mà chưa thấy hết bề sâu. Bởi người tài trí như mình ở trên đời không phải là hiếm, lại “có tài mà cậy chi tài”, tài trí thì đã đành nhưng phải có phước nữa mới hội đủ duyên để thành đạt.


Sống ở đời, ai cũng mong được sinh vào nhà khá giả, có điều kiện để học hành cũng như tạo dựng vốn liếng làm ăn, thiết lập đời sống hạnh phúc an vui. Nhưng trớ trêu cho kiếp người là không ai có thể chọn lựa cho mình một nơi chốn để sinh ra.

Sinh vào nhà cha mẹ là ai, hoàn cảnh như thế nào… là điều mà ta không thể tự quyết được, tất cả đều do nghiệp duyên quá khứ của mình dẫn dắt. Rồi khi lớn lên, trong cuộc chạy đua tìm kiếm mưu sinh đầy biến động thì không phải ai cũng đi đến thành công.

Người được gia đình hỗ trợ bước đầu về nhiều phương diện thì cũng đỡ vất vả nhưng không lấy gì đảm bảo là họ sẽ làm ăn thành đạt. Lại có không ít người khởi nghiệp từ chút vốn cỏn con hoặc thậm chí là hai bàn tay trắng, đơn thương độc mã nhưng lần hồi đã gặt hái thành quả giàu sang.


Khi đứng trước thềm vinh quang, khá nhiều người nghĩ rằng nhờ mình thông minh tài trí hơn người. Suy nghĩ như vậy không sai nhưng cạn cợt, thấy bề nổi mà chưa thấy hết bề sâu. Bởi người tài trí như mình ở trên đời không phải là hiếm, lại “có tài mà cậy chi tài”, tài trí thì đã đành nhưng phải có phước nữa mới hội đủ duyên để thành đạt.

Mọi phước đức giàu sang đều do bố thí, san sẻ với mọi người mà nên. Ngược lại, nghèo hèn do vì xan tham, keo lẫn chỉ lo cho riêng mình mà phải gánh chịu. Đức Phật đã dạy về nhân duyên sâu xa của giàu sang và nghèo hèn như sau:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Có hai pháp này khiến người bần tiện chẳng được tài sản. Thế nào là hai pháp? Nếu lúc thấy người khác bố thí, liền cấm chế; lại tự mình chẳng chịu bố thí. Ðó là, này Tỳ-kheo, có hai pháp này khiến người bần tiện không có tài bảo.

Này các Tỳ-kheo, lại có hai pháp khiến người phú quý. Thế nào là hai pháp? Nếu lúc thấy người cho người khác vật, liền hoan hỷ trợ giúp; tự mình cũng thích bố thí. Ðó là, này Tỳ-kheo, có hai pháp khiến người phú quý. Như thế, này các Tỳ-kheo, hãy học bố thí, chớ có tâm tham!

- Có hai pháp khiến người sanh trong nhà bần tiện. Thế nào là hai pháp? Chẳng hiếu đễ với cha mẹ, các bậc sư trưởng, cũng không thừa sự người hơn mình. Ðó là, này các Tỳ-kheo, có hai pháp này, khiến người sanh trong nhà bần tiện. Này các Tỳ-kheo, lại có hai pháp khiến người sanh trong nhà hào tộc.

Thế nào là hai pháp? Cung kính cha mẹ, anh em, tông tộc, đem của cải nhà mình bố thí. Ðó là, này các Tỳ-kheo, có hai pháp này sanh trong nhà hào tộc. Như thế, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này! 
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm”.

(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập I, phẩm Khuyến thỉnh, VNCPHVN ấn hành, 1997, tr.308)

Đức Phật đã chỉ dạy rất rõ, nếu tự thân biết bố thí và hoan hỷ tán trợ hạnh bố thí của người khác chính là tác nhân chủ yếu để hưởng phước phú quý, giàu sang.

Ngược lại, nếu mình không biết bố thí, tệ hại hơn còn ngăn cản người khác bố thí, thì chắc chắn sẽ chịu quả báo nghèo hèn, bần tiện. Nên trong quá trình làm ăn mà liên tục gặp thất bại, thậm chí vương phải nợ nần thì ngoài các lý do khách quan, hãy tự trách mình quá khứ không bố thí.

Muốn khá lên thì cần vun bồi phước đức bằng cách tu hạnh thí xả. Giả như hiện tại không có tài vật nào đáng để cho thì hãy tùy hỷ thí - trợ giúp và hân hoan ca ngợi hạnh bố thí của người khác - may ra mới tích lũy được phước phần.

Mặt khác, song hành với bố thí thì “cung kính cha mẹ, anh em, tông tộc” chính là những tác nhân của phước báo sanh vào nhà hào tộc, có uy danh và thế lực lớn trong xã hội.

Cho nên, những người con Phật chân chính hãy tự mình thực hiện hai hạnh lành bố thí và hiếu thuận, hướng dẫn cho con cháu cũng như những người xung quanh thực hành hai hạnh lành cao thượng này.

Ai làm được như thế thì chắc chắn về sau sẽ được phước báo sanh vào nhà tôn quý, lớn lên gặt hái nhiều thành công phú quý, giàu sang.  

Chủ Nhật, 27 tháng 9, 2015

Biết đủ cuộc sống sẽ thấy rất vui


66 câu Phật học 

HIỂU VỀ TRÁI TIM
Tất cả những vật chất kia chỉ đem tới sự thoải mái dễ chịu trong cuộc sống, nó không phải là lý do lớn nhất để ta sống.
Tương lai đi về đâu
Hai thập kỷ qua, hàng loạt nghiên cứu xã hội và tâm lý học cho thấy không có mối quan hệ thực sự giữa số tiền kiếm được mà mức độ thỏa mãn có được. Người ta cảm thấy hụt hẫng khi bỏ ra quá nhiều thời gian và năng lực để tích cóp tiền bạc, nhưng cảm giác sung sướng ấy thật cạn cợt và lại tan biến rất nhanh. Dần dần, con người không còn tin tưởng và định nghĩa những cảm giác thỏa mãn vật chất chính là hạnh phúc nữa. Người ta đã tỉnh táo nhận ra rằng tiền bạc không những không mua được hạnh phúc, mà còn có thể hủy diệt cả hạnh phúc.
Quả thật như vậy, Từ khi ta háo hức phát triển ngành công nghiệp để cho ra những sản phẩm cao cấp phục vụ sự hưởng thụ tang tiến của mình, cũng chính là lúc ta mất dần tính chủ quyền sống. Thời gian để phục vụ cho công việc đã lấn át hết thời gian cho những sinh hoạt căn bản nhất của con người. Túy có đầy đủ tiện nghi nhưng ta không thể tận hưởng. Lúc nào ta cũng bận rộn với công việc, với khách hang. Ta không có thời gian chăm sóc sức khỏe, không có cơ hội trò chuyện với mọi người, không có điều kiện học hỏi them kinh nghiệm sống, khong thu xếp được những bữa cơm gia đình đầm ấm, không thể lắng nghe và thẩu hiểu những người thân sống bên cạnh. Tệ hại nhất là lòng tham phát triển không ngừng và hang loạt phẩm chất đạo đức cũng bị bào mòn từ đó.
Ta thấy mình dần biến thành những cỗ máy vô tri không còn cảm nhận tinh tế trước những biểu hiện trong cảm xúc, trong tâm tư và những giá trị màu nhiệm của cuộc sống. Vậy mà lúc nào ta cũng tin rằng mình đang xây dựng một tương lai rất vững vàn và sang sủa. làm sao nắm bắt được tương lai nếu ngay cả những gì đagn diễn ra trong hiện tại mà ta cũng không nắm bắt được? Nhiều khi có người hỏi ta có thấy mùa thu vừa qua đpẹ không thì ta ngẩn ngơ như kẻ xa lạ từ đâu tới: “Ủa, mùa thu đã đến rồi à, tôi bận quá nên có hay biết gì đâu”. Nhưng rồi ta cũng chẳng buồn chú tâm hay tiếc nuối, vì với ta đó là những quan tâm xa xỉ, phi kinh tế. Duong như bây giờ bất cứ điều gì ta làm cũng đều được toan tính rất kỹ lưỡng, xem những việc ấy có đem tới lợi lộc gì không.
Có khi ta cho rằng thà hy sinh đời mình để đời con cháu được sung sướng thì cũng xứng đáng. Nhưng hành trang vào đời của một người trẻ đâu cần phải là số tài khoản ngân hàng cao ngất. Điều con trẻ cần hơn hết là sự quan tâm, thấu hiểu và chia sẻ với những gút mắc và mơ ước của chúng về cuộc sống. Con cái cần có một gia đình hạnh phúc để nương tựa và học hỏi. Tài sản của cha mẹ để lại chưa hẳn là điều kiện tốt. Nó dễ khiến sinh ra tâm lý ỷ lại, lười biếng phấn đấu và dễ dàng lao vào sự hưởng thụ. Rốt cuộc, cha mẹ hy sinh cho con cái nhưng con cái lại oán trách cha mẹ. Chúng nghi ngờ cách tích góp tiền bạc kia thật sự là vì chúng hay là vì lòng ham muốn làm giàu không thể cưỡng lại của cha mẹ. Những người trẻ ấy chắc chắc sẽ rất lạc lõng khi bước vào đời, vì họ không biết đi đâu và không biết tin vào đâu.
Có lẽ quan niệm “cực trước sướng sau” vẫn còn in khắc sâu đậm trong trí não của nhiều người. Nhưng ta hãy thử tìm hỏi những người đang ở tuổi về hưu xem họ có thật sự hưởng nhàn, hay là họ đang sống trong sự cô đơn lạc long? Cái họ đang cần là được hiểu và được thương, nhưng chính tính độc tài và thói quan ngờ vực là hậu quả của cuộc tranh chấp khốc liệt về kinh tế đã đẩy họ ra khỏi vòng tay của những người thân mất rồi. Vật chất đủ đầy đôi khi chẳng còn ý nghĩa gì với họ nữa, thậm chí họ rất chán ngán và muốn lánh xa. Niềm khao khát lớn nhất của họ bây giờ chính là được trở về thời tuổi trẻ để sống thật tươi cui, thật hay và thật đẹp. Cái hay và cái đẹp mà họ đã để cho dang dở đó chính là tình yêu, là tình Huynh đệ, là một việc gì đó ý nghĩa cho đời.
Kinh tế và phi kinh tế
Chủ nghĩa thực dụng được hình thành vào khoản giữa thế kỷ 19 và phát triển rầm rộ vào thế kỷ 20, nổi bật nhất là ở Mỹ. Chủ nghĩa này đề cao kinh nghiệm và hiệu quả, trong đó mọi hành động của con người là vì mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Vì nó thỏa mãn được nhu cầu hưởng thụ vô cùng của con người nên đã nhanh chóng nhận được sự ủng hộ nhiệt liệt của mọi tầng lớp. Nó vượ qua hẳn chủ nghĩa duy vật và của chủ nghĩa duy tâm, bác nỏ những vấn đề cơ bản của triết học hay tôn giáo vốn được đặt ra từ nhiều thế kỷ trước. Từ nền tảng đó, người ta mới phân định rạch ròi giữa kinh tế  và phi kinh tế.
Những gì có thể đem tới lợi nhuận thì gọi là kinh tế, còn những gì không đem tới lọi nhuận hay tổn thất là phi kinh tế. Thí dụ, trong một buổi gặp gỡ bạn bè mà khai thác được nhiều thông tin bổ ích, hoặc ít nhất có them những quan hệ tốt có thể hỗ trợ cho công việc làm ăn thì người ta gọi buổi gặp gỡ đó là xứng đáng, là thực tế. Còn tốn mấy tiếng đồng hồ mà chỉ nghe toàn là những câu chuyện thương tâm, hay nhắc lại những kỷ niệm xa xưa cũ rich, hoặc chỉ đơn giản là uống trà ngắm cảnh thôi thì đối với họ quả là một sự lãng phí, phi thực tế. Phi thực tế tức là phi kinh tế. Bây giờ người ta dùng chữ “thực tế” để chỉ cho kinh tế. Người không thực tế là người không có đầu óc kinh tế.
Những người làm kinh tế phải luôn ý thức loại trừ những vấn đề lien quan tới tình cảm. Không có chuyện nhường nhịn hay cảm thong trong khi làm ăn. Tất cả đều phải đi theo những nguyên tắc rạch ròi. Nhưng ai làm kinh tế, con người hay cỗ máy? Nếu là con người thì phải được bồi dưỡng sức khỏe, phải được nghỉ ngơi, phải được quan tâm nâng đỡ, phải được thấu hiểu và thương yêu chứ. Ta đừng có vội cho đó là những thứ phi kinh tế. Vì nếu không có nó thì ta không thể làm kinh tế, và cũng sẽ chẳng có cái gì là nều kinh tế cả. Những bản năng của con người vốn luôn bảo vệ cái tôi ích kỷ, nên người ta thà chịu hy sinh tình cảm hơn kinh tế. Vì làm kinh tế thì mình có thể bỏ túi riền, còn thương yêu thì phải san sẻ bớt. Biết bao cuộc tình tan vỡ, Huynh đệ tương tàn, chiến tranh giữa các sắc tột cũng vì mức ảnh hưởng quá lớn của kinh tế trong nhận thức của con người.
Cho nên, kinh tế lớn mạnh là đồng nghĩa với khổ đau của con người lớn mạnh. Người ta biết nói không có kinh tế thì tình cảm sẽ khó bền vững, nhưng người ta lại quên rằng không có tình cảm thì kinh tế cũng trở thành vô nghĩa. Làm giàu để làm gì khi ta không thể sống vui tươi, bình yên, hạnh phúc và trãi lòng ra với mọi người?
Tìm một lối đi
Cái luẩn quẩn nhất của con người trong thời đại này chính là không xác định được cái gì là phương tiện và cái gì là mục đích sống. Tất cả những vật chất kia chỉ đem tới sự thoải mái dễ chịu hơn trong cuộc sống, nó không phải là lý do lớn nhất để ta sống. Ta sống vì ta là một sinh linh, một thực tại mầu nhiệm, nên ta cần được phát huy đúng bản chất của mình là được thảnh thơi, bình yên và hạnh phúc. Bất kỳ hành vi nào của ta, dù thương yêu hay làm kinh tế cũng phải phản ánh được mục đích cao cả ấy. Không thể nói ta đang còn bận làm ra phương tiện, để năm hay mười năm nữa thì ta mới nắm được mục đích. Bây giờ ta còn kẹt cứng trên phương tiện, bị phương tiện khống chế đến phờ phạc, thì làm sao ta dám chắc sẽ dùng nó để đạt được mục đích? Với thái độ sống như thế thì rất có khả năng ta sẽ ngã quỵ và chết gục ngay trên chính phương tiện ấy.
Bhutan là một trong những nước nghèo nhất thế giới. Nhưng lúc nào họ cũng có sẵn nụ cười trên môi và luôn cảm thấy hạnh phúc với cuộc sống hiện tại. Người dân nơi này ý thức rằng một đất nước phát triển không có nghĩa là phải hy sinh môi trường hay hạnh phúc cộng đồng. Cho nên, họ đặt ra tiêu chí GNH (Gross National Happiness – tổng hạnh phúc quốc gia) để có thể chạm được mục đích của đời sống ngay trong thực tại, mà không cần thông qua con đường viển vông và đầy nguy hiểm của vật chất cao cấp. Nhờ “không giống ai” mà đời sống của họ rất an ninh, mức độ tội phạm hay ly dị rất thấp, và hơn hết là họ tận hưởng giá trị cuộc sống từng ngày nên tuổi thọ rất cao.
Lối xây dụng hạnh phúc này ngày càng thu hút sự chú ý của nhiều nước phát triển. Họ bắt đầu tập lắng nghe những khát khao sâu sắc của người dân mà quyết định giảm chí số GDP (Gross Domestic Product – tổng sản phẩm quốc nội), để mọi người giảm giờ làm mà có cơ hội trở về với những sinh hoạt căn bản trong cuộc sống. Tại Anh, khoảng 81% người dân đề nghị chính phủ chỉ nên tập trung vào việc làm cho người dân sống hạnh phúc hơn là giàu có. Họ yêu cầu cấm quảng cáo nhằm vào đối tượng trẻ con để hạn chế khuynh hướng tôn sung vật chất. Còn Nhật Bản thì hoảng hốt khi nhìn lại mức độ tội phạm và làm việc tang giờ không hề giảm so với thập niên 80, mạc dù kinh tế của họ đứng nhất nhì thế giới. Các vị lãnh đạo cấp cao đã nhìn vào tấm gương sống “biết đủ” của Bhutan nên đã mạnh dạn lên nhiều dự án “làm ít hơn, chơi nhiều hơn” để chỉ số GDP luôn song hành với chỉ số GNH. Nghĩa là kinh tế phải đi liền với hạnh phúc.
Vấn đề “hạnh phúc quốc gia” cũng đã thu hút sự quan tâm của nhiều thành phần xã hội, từ nhà kinh tế, triết gia, bác sĩ tâm lý, nhà sinh vật học và cả nhà tâm linh. Nhưng thực tế cho thấy xây dựng GNH khó gấp trăm ngàn lần so với GDP. Bởi vì trước tiên con người cần phải có ý thức đúng đắn về giá trị hạnh phúc, rồi phải trải qua một thời gian khá lâu để thuần phục bản năng hưởng thụ quá lớn của mình thì mới đủ sức gạt bỏ bớt những phương tiện hấp dẫn. Thay đổi thói quan để giảm bớt những cảm xúc tốt là một thách đố rất lớn. Nhưng nếu toàn xã hội cùng làm thì khó khan ấy sẽ dần được chấp nhận và hóa giải.
Việt Nam cũng đang dành mọi ưu tiên để phát triểu kinh tế và quyết tâm đưa nó đến đỉnh cao. Nhuuwng nếu ta ý thức được giá trị hàng đầu của hạnh phúc thì vẫn còn phải hy sinh vật chất, mãi là một quốc gia không giàu có thì ta cũng vui vẻ chấp nhận. Ta nhất định không thể sống thiếu thốn tình cảm và hạnh phúc. Theo gương những quốc gia khác, ta không thể “bắt cá hai tay”. Vậy từ bây giờ ta phải loại trừ ngay chủ nghĩa thực dụng và dồn năng lượng quay về xây dựng nếp sống văn minh tâm hồn. Chỉ có nếp sống ấy mới giúp ta luôn tìm thấy chính mình, gạn lọc những cáu bẩn phiền não và nuôi dưỡng những hạt giống tốt đẹp của tâm hồn. Trong không gian ấy, con người luôn ý thức rằng mọi thứ luôn có mặt trong một thứ, nên chủ nghĩa cá nhân được thay thế bằng tình nhân ái bao la. Đó chính là hạnh phúc cao đẹp nhất của con người.
Chờ đợi một chính sách ban hành để mọi người cùng làm thì sẽ rất lâu. Phần lớn mọi người vẫn chưa tin sống ít vật chất là có thể hạnh phúc, và nhiều người vẫn cho rằng con người phải đạt tới đỉnh cao vật chất thì mới chịu quay trở lại giá trị tinh thần. Nhưng thực tế cho thấy “nhà giàu cũng khóc”, và chẳng có mấy ai muốn từ bỏ lối hưởng thụ cao cấp. Một khi lòng tham của con người đã giãn nở ra rồi thì rất khó thu lại. Và khi ấy thì ta còn hồn phách nữa đâu để cảm nhận và giữ gìn những giá trị hạnh phúc. Mảnh đất tâm của ta đã khô cằn và chai sạn bởi cái gọi là nhu cầu vật chất mất rồi.
Hãy xem lại bức tranh hạnh phúc mà cụ Nguyễn Du đã vẽ sẵn cho chúng ta: “Một nhà chung chạ sớm tră/ Gió trăng mát mặt muối dưa chay lòng/ Bốn bề bát ngát mênh mông/ Triều dâng hôm sớm mây hồng trước sau”(Truyện Kiều). Thực tập đời sống biết đủ là cơ hội duy nhất để ta còn khả năng quay về thừa hưởng những tài sản lớn lao mà đất trời đã ban tặng cho ta. Những tài sản ấy đủ để làm nên đời sống ý nghĩa của một kiếp người. Một kiếp người rất ngắn ngủi. Không ai biết được mình sẽ sống bao lâu, vì thế xin đừng hững hờ với nó để lao theo vật chất. Ngày mai nếu phải ra đi mà ta chưa kịp sống sâu sắc cho ra một kiếp người đó thì chẳng phải là niềm ân hận rất lớn hay sao?
Ngày hôm qua đi đâu
Ta bỏ quên hạnh phúc?
Còn đây trong xanh xao
Giấc mơ buồn thổn thức.

Nguồn:
Minh Niệm
Nhà xuất bản Trẻ

Phước báo quanh ta - Hãy lắng lòng cảm nhận


Người đủ ăn đủ mặc,
Là người có phước đức,
Do đó nên ít lo,
Nhờ vậy mà dễ tu.
Là người Phật tử chân chính, chúng ta hãy nên biết phát huy hai mặt phước và đức song hành với nhau, giúp người vì tấm lòng tôn kính quý trọng, không phân biệt kẻ sang người hèn. Người có tấm lòng rộng mở mới có thể làm việc bố thí, cúng dường một cách vô điều kiện, có nghĩa là bình đẳng trong việc giúp đỡ, san sẻ, như trường hợp của ông Cấp Cô Độc. Nhờ vậy, tuy giàu có bậc nhất trong thiên hạ nhưngông vẫn khiêm cung; trên thì cung kính, tôn trọng người tu hành chân chính, biết hiếu thảo với ông bà cha mẹ; dưới thì bình đẳng bố thí, yêu thương, giúp đỡ tất cả mọi người. Ông là bậc mô phạm xứng đáng để hàng hậu học chúng ta bắt chước làm theo. Chính từ tấm lòng rộng mở để nâng đỡ tha nhân mà tâm ích kỷ của ta được chuyển hóa, tâm tham lam được giải trừ, tâm bỏn sẻn được thay đổi, tâm từ bi được tăng trưởng, tâm bao dung và độ lượng được phát triển, tâm buông xả được sáng ngời bằng trái tim yêu thương và hiểu biết.Bây giờ chúng ta từng tự thứ lớp đi vào nội dung chính của Kinh Nhân Quả Phước Đức mà giải thích từng phần.Phật dạy:
Phương pháp thứ nhất:
Luôn gần gũi người hiền,
Lánh xa kẻ xấu ác,
Tôn kính bậc đáng kính,
Đó là phước đức lớn nhất.
Người Phật tử chân chính trước tiên phải biết thân cận người hiền, tôn kính bậc đáng kính và hay lánh xa kẻ xấu ác, vì sao?Vì“gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Thường thì người hiền sống có nhân cách và đạo đức nhờ biết tu tâm dưỡng tánh, do đó chúng ta có dịp gần gũi người hiền để được học hỏi các điều hay, lẽ phải, nhờ vậy cuộc sống của ta càng ngày càng thăng hoa, hướng về điều thiện nhiều hơn,do đó ít vấp phải lỗi lầm đáng tiếc.Bậc hiền tài hay một vị thầy tâm linh luôn sống có ý thức, biết giữ gìn nhân cách, sống điều độ, hài hòa, không buông lung, phóng túng, trước khi làm việc gì biết xét nét kỹ càng và lường được hậu quả của nó. Do đó, chúng ta có phước báo lớn lao mới có dịp gần gũi, thân cận các bậc hiền Thánh. Các Ngài đã có khả năng chuyển hóa những lỗi lầm và ta có thể học hỏi để biết cách thay đổi cuộc đời và sẽ là gương tốt cho hàng hậu học noi theo. Do có định tĩnh và sáng suốt nên lòng từ bi rộng mở, các Ngài nhiệt tâm, bền chí trong việc dạy dỗ, hướng dẫn cho chúng ta tu học, tất cảđều phát xuất từ tấm lòng yêu thương chân thật, có khả năng giúp cho chúng ta làm người tốt mà biết cách vượt qua cạm bẫy cuộc đời.
Bởi vậy, bậc hiền Thánh do kinh nghiệm một đời tu tập, đã từng học hỏi người xưa qua sách vở và đã áp dụng vào trong thực tiễn cuộc sống, nên gần gũi các Ngài ta sẽ học được những lời dạy quý báu,chân thành và bổ ích; nhờ đó chúng ta ít vấp phải lỗi lầm mà không rơi vào hố sâu của đam mê, tội lỗi. Thế gian này là một trường đời hỗn hợp, phức tạp vô cùng, vì sự phát triển xã hội là từ lòng tham của con người, do đó cái ác luôn chiếm ưu thế, làm cho con người điên đảo, vọng động, mà làm những điều xấu xa, tội lỗi,gây khổ đau cho nhân loại. Vì thế, người con Phật cần phải biết khôn ngoan, khéo léo,tránh xa những kẻ xấu ác, mà hay gần gũi các bậc hiền tài, nếu không ta sẽ có ngày mang họa vào thân.Bản thân chúng tôi là một bằng chứng thiết thực, mới bảy tám tuổi đã bị tiêm nhiễm bởi các thói hư, tật xấu do sống chung và ảnh hưởng môi trường xung quanh không tốt. Tôi đã rơi vào hố sâu của tội lỗi,nên hơn nửa đời người đã làm các việc xấu ác. Tôi may mắn có được người mẹ nhân từ, đức độ,nên đã giúp tôi làm mới lại cuộc đời nhờ tình thương bao la của bà. Nếu ta muốn làm người tốt thì trước tiên phải biết gần gũi các bậc hiền Thánh, cố gắng học hỏi và rèn luyện nhân cách sống ngay từ thuở ấu thơ. Một gia đình có nề nếp gia phong tốt luôn biết cách dạy dỗ để giúp con em mình sống có chừng mực và hiểu biết.
Chúng ta thử nghĩ về một số người chơi ma túy đang bị cơn nghiện sai khiến, sắp sửa đi cướp giựt để có tiền mua ma túy. Thái độ đó rất xấu, nó làm cho con người ta vừa vật vã, vừa thèm khát khoái lạc,nên đành phải hung dữ, bạo động trong mù quáng. Nếu như ta đang ở trong nhóm người như vậy thì ta đang hấp thụ những chất độc hại, đang tàn phá cơ thể của ta, đang làm cho người thân ta đau khổ và gây thiệt hại cho nhiều người khác. Do đó, ta phải biết khôn khéo lánh xa kẻ xấu ác, luôn thân cận bậc hiền Thánh và phải biết tôn kính những bậc đáng kính. Nếu không thì cả thân và tâm của ta sẽ bị lây lan bởi thói hư tật xấu. Ta muốn có sức khỏe thì phải biết đưa vào cơ thể các thực phẩm tốt cho thân và thực phẩm an toàn cho tâm. Ta phải tìm một môi trường lành, môi trường có nhiều người tốt, trong đó mọi người đều có hướng thăng hoa đạo đức, có lý tưởng tốt để phục vụ nhân loại. Ở trong môi trường tốt, thực phẩm mà ta tiêu thụ sẽ trở nên hiền lành. Được sống với nhiều người tốt mà cùng nhau tu học trong lúc đi, đứng, nằm, ngồi, ăn cơm, quét tước, dọn dẹp, lau chùi, mình đều được bảo bọc bởi năng lượng hiền lành ấy, ta sẽ được thân tâm an ổn, nhẹ nhàng.
Vậy thế nào là kẻ xấu ác? Đó là kẻ thích sát sinh, hại vật, lường gạt, trộm cướp, sống hưởng thụ, vui chơi quá đáng, lười biếng, ỷ lại vào sự nghiệp của gia đình, bất hiếu với cha mẹ và hay say sưa, nghiện ngập. Tóm lại, sống chung với người xấu ác nếu không phải là bậc hiền Thánh thì trước sau gì cũng nhiễm thói quen xấu của họ, dù chúng ta có cố gắng cách mấy đi nữa cũng khó bề vượt qua. Như khixưa còn nhỏ ta thường tắm sông chung với nhau. Nếu lên bờ trước thì những bạn khác sẽ vấy sình bùn vào người để ta cùng dính bẩn. Cho nên, khi các em còn đang học nơi mái ấm nhà trường thì hãy khéo khôn, ngoan ngoãn, sáng suốtchọn bạn tốt mà chơi. Bạn nào siêng năng, chăm chỉ học hành, lại hay khuyến khích, giúp đỡ người khác, sống biết hiếu nghĩa với cha mẹ, thì ta hãy nên kết làm bạn thân với người đó. Cho nên, ca dao Việt Nam có câu “gần mực thì đen, gần đèn thì sáng” quả thật không sai chút nào. Ngoài việc lánh xa kẻ xấu ác, chúng ta hãy thường xuyên thân cận bậc hiền Thánh để được học hỏi những lời dạy quý báu. Ta luôn biết ơn và tôn kính người có công dạy dỗ chúng ta nên người, nhờ vậy chúng ta ý thức được lời dạy của các Ngài mà cố gắng hành trì, tu tập để xứng đáng là người Phật tử chân chính.





Phương pháp thứ hai là:
Biết chọn môi trường tốt,
Để làm các việc lành,
Cùng hướng về đường thiện,
Là phước đức lớn nhất.
Ngoài việc thân cận bậc hiền Thánh để học hỏi những điều hay lẽ phải trong cuộc sống, ta còn phải biết chọn môi trường tốt để làm các việc thiện lành, nhằm giúp ích cho mọi người và tự hoàn thiện chính mình. Trong thời đại văn minh, sự tiến bộ tiện nghi về vật chất đã giúp con người tiết kiệm được thời gian rất nhiều; nhưng ngược lại hoàn cảnh môi trường sống thường đem đến cho chúng ta những điều không được hài lòng, như ý. Do đó, ta phải biết chọn lựa môi trường tốt để tu chí, học hỏi mà làm các việc thiện lành, tốt đẹp. Nhờ vậy, ta đang tiến dần trên con đường giác ngộ, giải thoát để vượt qua biển khổ, sông mê mà vươn lên làm đẹp cuộc đời.
Thuở xưa, nhà thầy Mạnh Tử khi còn nhỏ sống gần nghĩa địa; thấy người đào huyệtchôn rồi khóc lóc người thân, thầy về nhà cũng bắt chước đào hố chôn rồi lăn khóc. Bà mẹ thấy vậy không hài lòng vì sợ con hư, nên tìm cách bán nhà và dọn ra chỗ gần chợ để ở. Thầy Mạnh Tử ở gần chợ thấy người mua bán cân đo đong đếm gian dối, thầy về nhà cũng bắt chước làm theo. Bà mẹ thấy vậy cảm thấy buồn trong lòng nên nói “chỗ này không phải để con ta ở”; thế là bà tiếp tục bán nhà và dọn đến gần trường học để ở. Thầy Mạnh Tử ở gần trường học, thấy trẻ đua nhau siêng năng học hỏi, lễ phép cung kính thưa hỏi thầy cô giáo, về nhà thầy cũng bắt chước đi thưa về trình lễ phép và siêng năng tinh cần học tập. Lúc này, bà mẹ Mạnh Tử mới thật sự vui lòng nói, “chỗ này mới thật đúng là chỗ của con ta ở”.Rồi một hôm, thầy Mạnh Tử bỏ học về nhà chơi. Bà mẹ đang ngồi dệt cửi trông thấy liền cầm dao cắt đứt tấm vải trên khung mà nói rằng, “con đang đi học mà bỏ học thì giống như mẹ cắt đứt tấm vải này mà bỏ đi”. Nghe lời mẹ dạy như thế, thầy Mạnh Tử liền ăn năn hối hận, thầy xin lỗi mẹ và từ đó về sau luônsiêng năng, chăm chỉ học hành, không dám lơ là, chễnh mảng một ngày nào. Nhờ vậy, sau này thầy trởthành bậc hiền tài có tiếng tăm mà dấn thân đóng góp cho gia đình, phục vụ tốt cho xã hội. Cha mẹ là thầy giáo đầu tiên của con trẻ, một gia đình có nề nếp gia phong tốt thì cha mẹ phải biết cách chăm sóc và dạy dỗ con cái đúng mức. Mẹ thầy Mạnh Tử ba lần dọn nhà, thay đổi chỗ ở, biết chọn môi trường tốt để giúp con mình ý thức và hiểu biết về giá trị sự sống, mà cố gắng siêng năng học hỏi, nhờ đó khi lớn lên thành bậc mô phạm đạo đức trong xã hội.Do đó, bậc làm cha mẹ phải biết dạy con khi tuổi còn nhỏ.Nếu thấy chúng tự tay giết hại một con vật vô cớ thì ta phải chỉ dạy liền, giết hại là một việc làm xấu vì ai cũng ham sống sợ chết, tại sao ta nỡ nhẫn tâm giết hại chúng. Thấy con mình lấy đồ của ai mà không trả lại là bậc cha mẹ phải chỉ dạy con mình tường tận, nhân trộm cắp sẽ dẫn đến quả báo nghèo cùng,khốn khổ trong hiện tại và mai sau.
Có một con sư tử mẹ rất thương con nên mỗi lần đi săn đều ngặm cổ con mình cùng theo. Trong lúc rượt con mồi, sư tử mẹ nhảy qua tảng đá, vì muốn há miệng để chụp con mồi mà nó vô tình làm sư tử con rớt xuống vực thẳm. Nhìn xuống vực sâu mà không thấy con mình đâu, nó buồn bả tiếc nuối thương con trong nỗi khổ, niềm đau. Không biết trời xuôi đất khiến như thế nào mà con sư tử con vẫn còn sống, nó chỉ bị thương nhẹ và được đàn cừu chăm sóc. Cừu mẹ coi nó như con của mình nên nuôi nó tử tế,nhờ vậy nó sống được trong sự đùm bọc, giúp đỡ của anh em nhà cừu. Nó lớn nhanh theo thời gian nhờ môi trường mới và hòa đồng vào nhịp sống của đàn cừu và trở nên hiền từ như các con cừu non, mặc dù bản chất nó là con sư tử.Vài năm sau, sư tử mẹ có dịp đi ngang qua vùng thảo nguyên của đàn cừu. Từ xa, sư tử mẹ đã thấy sư tử con nằm giữa bầy cừu. Sư tử mẹ rất đỗi ngạc nhiên tại sao có con sư tử hiền hậu ở trong bầy cừu? Bởi bản chất của sư tử là ăn mồi sống và nó sẽ tấn công bất cứ con vật nào để nuôi sống bản thân. Trong dòng suy nghĩ mong lung, nó nhớ lại đứa con cách nay vài năm đã bị rơi xuống vực sâu, “không lẽ con ta còn sống sót đó sao?” Nghĩ vậy, nó mon men đến gần mà không hề cố ý vồ một con cừu nào hết. Khi thấy sư tử xuất hiện, cả bầy cừu đều hoảng loạn bỏ chạy. Sư tử mẹ chỉ cố tình đuổi theo sư tử con và cuối cùng đã gặm được cổ nó và chạy đến bên bờ suối, rồi thả xuống để nó uống nước.
Câu chuyện ngụ ngôn trên được dừng lại nơi đây để chúng ta cùng tham khảo và suy gẫm. Môi trường tốt hay xấu rất quan trọng trong đời sống của chúng ta. Nếu ta có đầy đủ phúc duyên được sống gần các bậc hiền đức để học hỏi và rèn luyện bản thân, nhờ vậy ta có thể phát triển theo chiều hướng tích cực để có thể giúp đỡ gia đình và đóng góp lợi ích thiết thực cho xã hội. Đời sống của loài cừu chỉ an phận với đồng cỏ non trước mắt, nên cuộc sống của chúng còn rất nhiều giới hạn. Muốn khai thác tiềm năng vô hạn của con người để được sống yêu thương hơn, ta phải quyết tâm biết chọn môi trường tốt để có cơ hội dấn thân phục vụ, cùng hướng về việc làm có ích cho nhân loại.
Phương pháp thứ ba là:
Siêng học lại giỏi nghề
Biết giữ gìn đạo đức
Biết nói lời ái ngữ
Là phước đức lớn nhất.
Siêng năng, chăm chỉ học hành, biết nghe lời thầy cô giáo là trách nhiệm của chúng ta khi còn ngồi trong ghế nhà trường. Trong thời gian đang học, quan hệ bạn bè rất cần thiết. Nếu ta có bạn luôn siêng năng, chăm chỉ thì ta cùng nhau chăm chỉ học hành, cùng động viên, khuyên nhủ nhau mà cố gắng học tốt. Khi lớn lên, chúng ta biết chọn nghề nghiệp chân chánh và phải siêng năng tận tụy với nghề nghiệp đó.Người con Phật phải biết tránh những nghề nghiệp làm tổn hại đến tất cả chúng sinh; như nghề mua bán phụ nữ, mua bán trẻ em, mua bán vũ khí, mua bán thuốc độc, mua bán rượu, xì ke, ma túy, và nghề trực tiếp giết hại các loài súc vật. Muốn được như vậy thì ta phải đồng hướng về Tam bảo quy y Phật-Pháp-Tăng, và phát nguyện gìn giữ 5 điều đạo đức.
Ngoài ra còn phải siêng năng học hỏi, tu bổ tay nghề, hay học đi đôi với hành. Vậy học là gì? Hành là sao?Học là tiếp thu những kiến thức hiểu biết cơ bản của nhân loại qua mấy ngàn năm lịch sử con người. Chúng ta có thể học qua trường lớp, qua sách vở, học ở bạn bè, học ở gia đình và học ở thực tế cuộc sống. Mục đích việc học là nâng cao sự hiểu biết của con người và vạn vật trên thế gian này, để biết được thật giả, tốt xấu, đúng sai, phải quấy, mà chúng ta có thể áp dụng vào trong đời sống hằng ngày. Muốn hiểu biết được bản chất của cuộc đời, ta phải siêng năng học hỏi, chịu khó nghiên cứu, tìm tòi, để sau khi khôn lớn trưởng thành ta biết vận dụng việc học của mình mà làm tròn trách nhiệm đối với gia đình, dấn thân phục vụ tốt cho xã hội.Sau khi đã hiểu biết về kiến thức, ta bắt đầu giai đoạn tiếp theolà chọn ngành nghề để làm việc. Có nhiều nghề đem lại lợi ích cho tha nhân mà không làm tổn hại cho ai, như nghề thầy giáo, nghề chữa bệnh, nghề gieo trồng sản xuất và giáo dục tâm linh để hoàn thiện nhân cách đạo đức, giúp mọi người tự tin chính mình và tin sâu nhân quả.Người Phật tử chân chính sẽ biết khôn ngoan, sáng suốt chọn lựa nghề thánh thiện. Vậy mà ngày nay, có nhiều người cha mẹ cho ăn học đàng hoàng, đã tốt nghiệp đại học nhưng sau đó chẳng đem cái được học làm sự nghiệp sinh sống; rốt cuộc hoang phí tiền bạc của cha mẹ hơn 20 năm nuôi dưỡng. Mục đích của việc học là để nâng cao trinh độ hiểu biết mà ứng dụng vào đời sống hằng ngày. Việc ỷ lại, nhờ vã vào người khác là căn bệnh lười biếng của một số người sống thiếu ý thức và trách nhiệm của mình. Những kẻ như thế khó bao giờ thành đạt trong xã hội, thử hỏi làm sao có đủ khả năng nuôi sống bản thân, giúp đỡ gia đình và phục vụ nhân loại?
Để việc giao tiếp với đối tác trong quan hệ cuộc sống được vuông tròn, tốt đẹp, ta cần phải nói lời hòa nhã, dịu dàng, dễ nghe, nhờ biết quy hướng Tam bảo và gìn giữ 5 điều đạo đức. Ý thức được khổ đau do sự giết hại gây ra, ta không trực tiếp giết hại hay xúi bảo người khác giết hại. Ta không tự ý lấy đồ của người kháckhi không được cho phép, hoặc hiên ngang cướp giật công khai. Ta sống chung thủy một vợ một chồng, không ngoại tình, lang chạ với người khác. Ta không nói lời hằn học nặng nề, hay mắng chửi người khác; cho đến việc ta không đưa các độc tố vào cơ thể như rượu, xì ke, ma túy, vì nó làm ta điên cuồng, mê muội. Ta siêng năng, tinh cần học hỏi, và biết phát huy nghề nghiệp đúng mức;nhờ vậy ta sống có nhân cách đạo đức, nên thân tâm được thanh tịnh, trong sáng mà an ổn, nhẹ nhàng.
Phương pháp thứ tư là:
Biết hiếu dưỡng cha mẹ,
Thương yêu gia đình mình.
Lại làm nghề thích hợp,
Là phước đức lớn nhất.
Hiếu dưỡng với cha mẹ là trách nhiệm và bổn phận của một con người. Ta có thân này là nhờ công ơn của cha mẹ. Mẹ mang nặng đẻ đau, cha làm lụng vất vã để nuôi ta khôn lớn. Gia đình là chỗ nương tựa chính đáng giúp ta trưởng thành và nên người, nhờ cha mẹ biết cách nuôi dạy khôn khéo, tập cho con mình biết sống tự lập, có một nhận thức đúng đắn và sống không ỷ lại vào gia đình. Riêng về bổn phận làm con, chúng ta biết nghe theo lời của cha mẹ, cung kính, hiếu thảo và biết ơn.
Chọn nghề nghiệp để làm việc là một điều rất quan trọng, cần thiết trong cuộc sống. Trong xã hội, tùy theo địa vị mà có chức năng và nghề nghiệp khác nhau, nên người con Phật cần phải biết khôn ngoan,sáng suốt lựa chọn cho mình một nghề nghiệp chân chính. Nghề nghiệp chân chính không làm tổn hại một ai, giúp ta sống an vui, hạnh phúc vì có cơ hội phục vụ tốt cho nhiều người. Ngành nghề trong xã hội rất đa dạng và phong phú, có những nghề càng làm càng có phước, có những nghề càng làm càng có tội. Nghề có phước như xây dựng trường học, cầu cống, đường xá, y tế, bác sĩ, bảo vệ môi trường, trồng trọt v.v… Nghề có tội như trực tiếp sát sinh, hại vật, mua bán vũ khí, mua bán trẻ em phụ nữ, mua bán rượu và các chất xì ke, ma túy là những nghề càng làm càng gây tạo thêm tội lỗi. Quả báo trong hiện tại bị bệnh hoạn, chết yểu, bị tù tội và si mê, cuồng loạn. Sau khi chết lại bị đọa 3 đường dữ để chịu khổ báo, hành hạ trong địa ngục và làm quỷ đói, súc sinh để trả nợ tiền kiếp oan gia.
Trong bầu vũ trụ bao la này, từ con người cho đến muôn loài muôn vật đều sống nương nhờ lẫn nhau theo nguyên lý nhân duyên quả mà bảo tồn mạng sống. Cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không. Do đó, chúng ta phải có trách nhiệm và bổn phận đùm bọc, yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau bằng trái tim hiểu biết. Một con người muốn hoàn thiện chính mình thì trước tiên phải biết hiếu kính với cha mẹ, bởi đó là người có công sinh thành dưỡng dục, nuôi ta khôn lớn, mà ta còn không biết ơn thì thử hỏi làm sao có thể tốt với mọi người. Ngoài việc hiếu thảo đối với mẹ cha, ta còn phải có trách nhiệm và bổn phận thương yêu gia đình người thân như là thương yêu chính mình. Muốn được như vậy,ta phải biết chọn nghề nghiệp chánh đáng để sinh sống mà ít làm tổn hại cho ai. Ta sống được trọn vẹn như thế nên lúc nào cũng bình yên, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.
Phương pháp thứ năm là:
Sống vui vẻ bố thí,
Giúp gia đình người thân.
Bình đẳng tùy theo duyên,
Là phước đức lớn nhất. 
Đạo Phật đi vào đời vì lợi ích chúng sinh để chuyển hóa hiểm nghèo. Phật dạy pháp bố thílà điều căn bản trong cuộc sống. Bố thí là con đường mở rộng cửa từ bi để mọi người biết sống thương yêu bằng trái tim hiểu biết và đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau. Một người làm ăn lương thiện, có nhân cách đạo đứcbiết gầy dựng cơ nghiệp của mình từ hai bàn tay và khối óc. Đó là phước đức lớn nhất;càng phước đức hơn khi cuộc sống của ta được đầy đủ về mọi mặt, ta không phải lo toan cơm áo gạo tiền, không phải bận bịu về kế sinh nhai, nên dễ dàng dấn thân đi vào đời để phục vụ lợi ích cho nhân loại.Nhờ vậy ta có cơ hội sống tốt hơn để phụng dưỡng cha mẹ, giúp đỡ người thân và nâng đỡ, sẻ chia với mọi người xung quanh, nhất là những người đang gặp bất hạnh, thiếu thốn, khó khăn. Sống trung thực, thật thà,ngay thẳng, biết xét nét từng cử chỉ, hành động của mình mà ta lúc nào cũng an vui, thanh thản, chẳng có điều gì phải dằn vặt làm ta bận lòng. Ta sống được bình an mà hay giúp người cứu vật là đã thành tựu phước đức.
Khi ta đã có đời sống ổn định mà lại có nghề nghiệp chân chính,thì phải chia tiền bạc ra làm 5 phần, 2phần duy trì công việc góp vốn kinh doanh, 1 phần lo thủ hậu bệnh hoạn mai sau, 1 phần giúp gia đình,người thân khi gặp hoàn cảnh khó khăn, 1 phần cúng dường người tu hành chân chính hoặc giúp đỡ ai đó trong cơn hoạn nạn, khốn khó. Bố thí hay nâng đỡ tha nhân là việc làm cao thượng mà mỗi người con Phật cần phải có trách nhiệm và bổn phận giúp đỡ lẫn nhau vì tình người, tình nhân loại trong cuộc sống. Người con Phật trước tiên phải giúp đỡ cho gia đình, người thân trước; kế đến mới giúp người ngoài xã hội và cúng dường Tam bảo; nhưng người có tiền bạc thì dễ dàng làm được điều đó, còn kẻ nghèo khó, thiếu thốn, khó khăn thì làm sao đây? Vấn đề được đặt ra ở đây chính là tấm lòng, nếu ta có tấm lòng thì có tất cả, tùy hỷ tán thán với việc làm tốt đẹp của người khác cũng là một nghệ thuật sống làm cho ta chuyển hóa được thói quen ganh ghét, tật đố. Ta vui với việc làm tốt của người khác, nhờ đó ta sống trong bình an, hạnh phúc.
Có nhiều gia tộc sống rất hay. Khi có người thành công trong việc làm ăn sinh sống thì bắt đầu tìm cáchtạo điều kiệngiúp đỡ cho người thân cũng được thành công như mình. Kinh Phật có một câu chuyện rất thực tế. Có người hỏi, hai người đồng nhau về mọi phương diện tài năng, giới hạnh, nhưng một người biết bố thí giúp đỡ, một người thì không; sau khi chết đi, nếu hai người ấy sinh lại làm người thì có sự khác biệt như thế nào? Phật nói, “người có bố thí, giúp đỡ sẽ vượt qua người kia trên 5phương diện: sống thọ và khỏe mạnh hơn; nhan sắc xinh đẹp, dễ nhìn; cuộc sống an vui, hạnh phúc; có địa vị, danh phận rõ ràng và có cuộc sống ngày càng thăng hoa hơn”. Do vậy, bố thí cúng dường giúp ta vui vẻ sống lạc quan và dễ dàng buông xả các thói quen xấu có tính cách hại người, hại vật.Nhờ có bố thí và buông xả, ta được phước báu đầy đủ, dư dã về mọi phương diện vật chất lẫn tinh thần, cuộc sống luôn no cơm ấm áo; nhờ vậy ta khỏi phải lo toan, bận bịu mà sống có tình thương yêu chân thật, tình người trong cuộc sống; do đó, ta biết khoan dung và độ lượng, cảm thông và tha thứ, biết chia vui sớt khổ trên tinh thần vô ngã, vị tha.
Hai người cư sĩ cùng giữ 5 giới đầy đủ, siêng tu trí tuệ, biết buông xả các tâm tư hại người hại vật;nhưng một người có bố thí, biết giúp đỡbằng cả tấm lòng thành kính của mình, thì dĩ nhiên sẽ tăng thêm nhân quả thiện lành, tốt đẹp trong hiện tại và mai sau. Do đó, quả báo sẽ thù thắng hơn trong 5 điều:sống thọ, sắc đẹp, an lạc, địa vị và cuộc sống ngày một thăng hoa hơn. Giúp người hay nâng đỡ một ai là nghĩa cử cao đẹp của người con Phật, sống cho đi mà không cần đền đáp lại vì đó là trách nhiệm chung và bổn phận của mọi người trong xã hội. Ta cho những gì mình cần, mình thích, mình trân quý, mới là cách cho khó làm nhất trong cuộc đời. Để đạt được đỉnh cao của tấm lòng vô ngã, vị tha, ta phải thấu rõ bản chất của cuộc đời là hư dối, tạm bợ, vô thường và không có thực thể cố định là ta, là của ta. Cho mà không thấy mình cho, vật cho, và đối tượng để cho; có nghĩa là khi gặp người tu hành chân chánh thì ta cúng dường, khi gặp người khó khăn thì ta giúp đỡ mà không tính toán, so đo, tùy duyên,tùy hoàn cảnh mà ta có thể đóng góp lợi ích thiết thực vào trong cuộc sống hằng ngày.Bố thí hay giúp đỡ, sẻ chia là con đường mau dẫn đến giàu có, an lạc, hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại; là pháp tu căn bản của người con Phật. Do vậy, ai hiện đời sống khá giả, nhiều tài sản là người đã biết gieo trồng phước đức từ nhân biết bố thí, san sẻ, giúp đỡ người khác.Ai hiện tại nghèo hèn, khốn khó, ít tài sản, dù làm việc vất vả, nhọc nhằn quanh năm mà vẫn thiếu trước, hụt sau, thì ta biết mình ít gieo trồng phước, nên cần cố gắng nhiều hơn nữa trong việc bố thí, cúng dường.
Tuy nhiên, vẫn có nhiều trường hợp khác biệt trong thực tế làm ta nghi ngờ về lý nhân quả. Có người sống hay lường gạt, trộm cướp, lấy của người, mà họ vẫn sống phây phây, giàu có, dư dã, có nhiều thế lực và tài sản lớn. Nhân quả thật sự rất đa dạng và phức tạp, bởi phải trải qua 3 thời hiện tại, quá khứ, vị lai; hay còn gọi là hiện báo, sinh báo và hậu báo.Hiện báo là khi ta gieo nhân thì có kết quả liền trong hiện tại; như ta đang đói bụng ăn cơm vào được no. Chính vì vậy mà ta gọi là gieo nhân thì gặt quả.Sinh báo là khi ta gieo nhân thì phải chờ đến một thời gian nào đó mới có kết quả. Hậu báo thì phải trải qua nhiều đời, nhiều kiếp mới cho ra kết quả. Khi đã gieo nhân dù trăm kiếp nghìn đời vẫn không mất, khi hội đủ nhân duyên thì sẽ cho ra kết quả, chỉ đến sớm hay muộn mà thôi. Như chúng ta đồng thời gieo trồng hạt giống của ba loại, cây lúa, cây chuối và cây xoài cùng một thời gian. Kết quả là ta thu hoạch được 3 loại này vào thời gian chênh lệch khác nhau.Hạt giống của cây lúa khi gieo xuống thì từ 3 tháng cho đến6 tháng thì sẽ thu hoạch được. Hạt giống của cây chuối khi trồng xuống phải từ 6 tháng cho đến 1 năm mới thu được kết quả. Riêng hạt giống của cây xoài thì nhanh lắm cũng phải từ 2 năm trở lên mới có thể thu hoạch. Qua hình ảnh thí dụ này, chúng ta thấy đường đi của nhân quả còn chịu ảnh hưởng của nhiều duyên khác. Có khi ta gây nhân mà không gặt được kết quả bởi do duyên không hội tủ đủ đầy.
Về mặt nhân quả, kẻ làm ác mà vẫn hưởng điều tốt lành trong hiện tại, như giàu sang và có chức quyền, vì đây là dư báo làm thiện của họ ngày xưa còn quá nhiều, nên ta thấy nhân quả dường như chẳng công bằng. Chúng ta có thể qua mặt được luật pháp và dối gạt nhiều người khác, nhưng ta không thể nào qua mặt được luật nhân quả nghiệp báo, đến khi phước hết thì chịu họa khổ đau vô cùng tận. Những người hiện tại chuyên bố thí cúng dường hay giúp đỡ mọi người, nhưng vẫn thường xuyên gặp trắc trở, hoạn nạn là vì sao? Có một bà già chuyên làm việc từ thiện đã gần 30 năm, ai cũng biết bà như một vị Bồ tát Quan Âm luôn có mặt khắp mọi nơi. Vậy mà lúc nào bà cũng gặp điều bất hạnh. Chuyến từ thiện hôm ấy mọi người trên xe đều chết, riêng bà chỉ bị gãy xương tay mà thôi. Sự việc xảy ra như thế làm bà mất niềm tin về nhân quả, bà gần như muốn thoái Bồ đề tâm. Một hôm,bà vô tình gặp một vị thầy, nênliền kể hết nguyên nhân và kết quả việc làm của bà từ bấy lâu nay.Vị thầy ồ lên một tiếng và tán thán việc làm của bà mà không quên kèm theo một lời an ủi thắm đậm tình người, “bà không thấy đó sao,bao nhiêu người đều chết hết trong chuyến xe oan nghiệt đó, còn bà chỉ bị gãy tay mà thôi và nay đã lành lặn. Đó là phước của bà đã làm từ thiện trong nhiều năm qua, nhờ vậy bà thoát chết trong đường tơ kẻ tóc mà vẫn sống để tiếp tục làm công việc chia vui, sớt khổ, giúp đỡ mọi người nhiều hơn nữa”.Khi được vị thầy trình bày cặn kẽ về sự phức tạp và đa dạng của nhân quả phải trải qua 3 thời hiện tại-quá khứ-vị lai, bà hoan hỷ, vui vẻ chưa từng có từ trước đến nay, nên phát tín tâm không còn nghi ngờ về nhân quả nữa. Từ đó, bà vững lòng tin hơn nên phát nguyện đời đời kiếp kiếp luôn sống vì mọi người. Giờ thì bà tuy đã lớn tuổi nhưng hầu như chuyến từ thiện nào bà cũng đều có mặt, bà luôn vui tươi chia sẻ để làm giảm bớt nỗi đau bất hạnh của nhiều người.
Bố thí giúp đỡ với tâm chân thành, vui vẻ, đúng lúc, đúng nơi, đúng chỗ sẽ giúp cho người qua cơn hoạn nạn, nên giá trị đóng góp rất thiết thực, như người khát cần nước, người rét cần lửa, người đói cần ăn. Ta bố thí, cúng dường với tâm cung kính, tôn trọng, thì cả hai người cho và nhận đều được an lạc, hạnh phúc thật sự ngay tại đây và bây giờ.

THÍCH ĐẠT MA PHỔ GIÁC

Đừng làm khổ mình mình khổ người


Tránh không làm điều ác,
Không say sưa nghiện ngập,
Siêng năng làm việc lành,
Là phước đức lớn nhất.
Vậy thế nào là việc ác? Cái gì có tính cách hại người, hại vật thì đó là việc ác, như giết hại, trộm cướp,lường gạt, quan hệ bất chính với vợ chồng người khác, nói dối gạt người, nói lời dụ dỗ hại người, nói lời cộc cằn thô lỗ, nói lời gây mất đoàn kết làm hai bên hiểu lầm nhau và uống rượu say sưa, nghiện nghập,hoặc dùng các chất kích thích như xì ke, ma túy. Nói chung, cái gì làm tổn hại cho nhau trong hiện tại và mai sau thì đó là việc ác.Đứng trước dòng thác lũ của cuộc đời với muôn vàn sự sai khác, tốt xấu, nên hư, thành bại, đều do mình tạo lấy, mình làm lành hưởng nhiều phước báo cõi Trời Người, mình làm ác chịu quả khổ đau trong 3 đường dữ: địa ngục, quỷ đói, súc sinh. Ai khôn ngoan, sáng suốt, biết học hỏi và thường xuyên quán chiếu, tu tập, thì sẽ quyết tâm tránh xa không làm các việc xấu ác. Trong cuộc sống giao tiếp, lễ nghĩa là điều không thể thiếu trong quan hệ tình người với nhau, nên “miếng trầu, men rượu là đầu câu chuyện” để nối kết giao dịch trong làm ăn, sinh sống với nhau. Để giữ mình không say sưa, nghiện ngập mà sống giữa dòng đời nghiệt ngã không phải là chuyện dễ làm. Rượu chè, cờ bạc, đàn điếm, hút xách là những thứ có sức quyến rũ hấp dẫn chúng ta lạ thường. Chỉ có người thấm nhuần đạo lý, tin sâu nhân quả mới có thể vượt qua những thứ này mà biết cách làm chủ bản thân.
Phước đức hình thành và tăng trưởng nhanh nhất khi chúng ta biết siêng năng làm các việc thiện lành,tốt đẹp. Khi ta phát nguyện làm các việc có ích cho nhân loại, thì ta sẽ không bao giờ làm các việc xấu ác. Làm việc thiện lành, tốt đẹp luôn giúp cho ta an vui trong chánh pháp, sẵn sàng dấn thân phục vụ vì lợi ích tha nhân không biết mệt mỏi, nhàm chán. Khi ta tạo phước đức cho bản thân bằng cách làm các việc bố thí cúng dường, giúp đỡ, chia sẻ cho người bất hạnh, thì ta tuyệt nhiên không bị sự chi phối của say sưa và nghiện ngập bê tha. Trong quan hệ giao dịch làm ăn, thói quen của người đời thường lấy ăn uống làm phương tiện đối tác, nhất là rượu bia. Việc làm ăn càng thành đạt thì việc say sưa trong rượu chè là điều khó tránh khỏi; nhưng đã là Phật tử chân chính, ta quyết tâm khắc phục thói quen say sưa,nghiện ngập để được sống tốt hơn mà làm tròn trách nhiệm, bổn phận cho gia đình, và đóng góp lợi ích thiết thực cho xã hội. Một con người thường xuyên say sưa, nghiện ngập thì không bao giờ có tín tâm để làm các việc thiện lành, tốt đẹp.
Khi người ta giàu lên thì dễ sinh tật say sưa, đam mê các dục vọng thấp hèn. Ta thường hay đổ thừa,quy kết cho người nghèo là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội. Thế nhưng, khi con người phát triển,văn minh tiện nghi vật chất càng cao thì có khi lại gia tăng thêm tệ nạn xã hội, như tình trạng của đất nước ta hiện nay. Trẻ em phạm pháp ngày càng nhiều, có những vụ án hết sức nghiêm trọng và dã man quá mức. Nạn suy đồi nhân cách con người do mất phẩm chất đạo đức, trình độ hiểu biết và nhận thức của chúng ta không theo kịp đà tiến bộ xã hội, nên ta đã tự đánh mất mình trong si mê, lầm lạc mà làm khổ đau cho nhân loại.Khi có tiền trong tay, nhất là con cái của nhà giàu có, vì đua đòi ăn chơi trác táng theo bè bạn để chứng tỏ đẳng cấp con nhà quý tộc mà hưởng thụ trụy lạc, vui chơi trong các vũ trường, quán nhậu, quán ba, dẫn đến sa đọa bắt đầu kể từ đó. Tiền của cha mẹ chúng làm ra dễ dàng vì những phi vụ bất chánh nên sinh ra đủ thứ tật xấu, ăn nhậu, chơi bời, cờ bạc, hút chích, gái gú … Như vậy,giàu có mà không nhân cách đạo đức thì thật là nguy hiểm vô cùng, nên hậu quả là nhiều gia đình tan vỡ, đổ nát, mất hạnh phúc chỉ vì lòng si mê tham muốn hưởng thụ quá đáng.
Ý thức được sự sống trên thế gian này là phải nương nhờ lẫn nhau, ta không làm ruộng nhưng vẫn có cơm ăn, ta không dệt vải nhưng vẫn có áo mặc, cho đến các nhu cầu cần thiết trong đời sống của ta hằng ngày cũng phải như thế. Nhiều người không quan tâm, chú ý đến khía cạnh này, nên đôi khi ta quá chủ quan, không cảnh giác,để rồi đánh mất mình khi lỡ sa đà vào say sưa,nghiện ngập. Nói cách khác, say sưa và nghiện ngập là 2 yếu tố quan trọng khiến ta tổn giảm phước đức nhanh chóng vì tinh thần si mê, ám độn. Quả báo hiện đời là tinh thần tán loạn, mê mờ, làm khổ gia đình, người thân và xã hội, dính vào vòng tù tội. Do đó, ta phải thường xuyên gần gũi bạn lành, lánh xa kẻ xấu ác, phát nguyện gieo trồng phước đức, làm việc tốt vì lợi ích nhân loại, nhờ vậy ta lúc nào cũng bình tĩnh, sáng suốt, làm chủ bản thân mà vượt qua cạm bẫy cuộc đời.
Ai có nhân duyên lớn mới có cơ hội đọc tụng và hành trì theo Kinh Nhân Quả Phước Đức, nhờ vậy chắc chắn sẽ gặt hái được phước báo thiện lành, tốt đẹp trong hiện tại và mai sau, nên không mắc phải những sai lầm đáng tiếc mà sống bình an, hạnh phúc. 

Phương pháp thứ bảy là:
Biết khiêm cung lễ độ,
Để học hỏi điều hay.
Nhớ ơn và biết đủ,
Là phước đức lớn nhất.

Người xưa nói “tiên học lễ, hậu học văn”, ta phải biết khiêm tốn thấp mình thưa hỏi, biết kính trên nhường dưới, tôn sư trọng đạo để học hỏi điều hay lẽ phải. Tâm khiêm tốn, lễ độ giống như biển cả mênh mông thấp mình chờ đợi, khiến trăm sông cao vót đem nước về biển cả bao la. Do đó, khiêm tốn để học hỏi là một nhân cách cao thượng đối với vị thầy của ta, nhờ thấp mình thưa hỏi đạo lý nên ta biết hóa giải phiền não tham-sân-si thành an vui, hạnh phúc. Ngược lại với tâm khiêm tốn là cống cao ngã mạn. Người đời thường hay chấp trước ở địa vị và bằng cấp, nếu muốn học đạo mà ta nghĩ vị thầy đó còn dốt hơn mình, rồi coi thường, khi dễ, nên bỏ lỡ cơ hội học đạo Thánh hiền. Ai sinh ra chỗ ti tiện,thấp kém, đều từ tâm ngã mạn mà ra. Khi ta khiêm tốn thì tâm cống cao ngã mạn biến mất, không có chỗ để nó dung thân. Ta biết thưa hỏi và lắng nghe lời chỉ dạy của thầy để biết cách tu tập, từng bước vượt qua cạm bẫy cuộc đời mà được an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.
Tăng Pháp Đạt chuyên trì tụng kinh Pháp Hoa nhưng đến lễ Tổ mà đầu không sát đất, bèn bị tổ quở,“trong tâm ông ắt chứa vật gì nên mới có tâm không khiêm tốn như thế”. Pháp Đạt thưa, “con tụng kinh Pháp Hoa 3000 bộ”. Tổ mới bảo, “dù ông tụng đến muôn vạn bộ kinh, hiểu ý kinh và thông đạt hết các pháp mà chẳng cho là hơn người ắt cùng ta sánh vai. Nay ông chấp trước tụng kinh nhiều mà không biết lỗi, ông hãy lắng lặng lòng mà nghe ta nói kệ:
Lễ để cốt chặt cờ ngã mạn,
Tại sao đầu ông không sát đất?
Có ngã thì tội liền sanh,
Quên công thì phước bao la không cùng.
Lễ lạy là mục đích để tỏ lòng tôn kính đối với vị thầy của mình và ta khiêm tốn, thấp mình thưa hỏiđể biết được điều hay lẽ phải trong cuộc sống mà dẹp bỏ tâm cống cao, ngã mạn của mình. Pháp Đạt vì còn thấy mình hơn Tổ nên lạy đầu không sát đất, bị Tổ quở “nếu thấy mình còn hơn người, vậy đến đây học đạo chi cho mất công vô ích”. Như chúng ta đã biết, người ngồi nhận lễ là tạo nhân duyên tốt cho người học đạo, nhờ vậy dẹp bớt được tâm cống cao, ngã mạn. Người tu mà không biết thấp mình thưa hỏi thì làm sao học được đạo giác ngộ, giải thoát? Tăng Pháp Đạt liền lễ lạy cầu xin sám hối, mong Tổ tha thứ cho. Pháp Đạt nhờ thế mà nhận ra yếu chỉ tu hành, từ đó Ngài phát tâm tụng kinh nhiều hơn nữa.
Ta học đạo của bậc hiền Thánh trước tiên cần có tâm khiêm tốn, tha thiết vì cầu giải thoát sinh tử; muốn được như vậy ta cần phải “muốn ít biết đủ”, không tham cầu quá mức, sống đơn giản, không tích chứa tài vật riêng tư. Điều quan trọng hơn hết là ta phải biết nhớ ơn để đền ơn thầy tổ bằng cách siêng năng tu học và làm lợi ích chúng sinh không biết mệt mỏi, không biết nhàm chán; nhờ vậy ta người cả hai đều lợi lạc.Nhớ ơn và đền ơn là đạo lý uống nước nhớ nguồn, người học đạo chân chính lúc nào cũng phải khắc cốt ghi tâm, nương theo lời dạycủa bậc thiện hữu tri thức mà cố gắng hành trì để đạt được đỉnh cao của sự giác ngộ, giải thoát. Sống đơn giản, biết tiết chế trong việc ăn uống, điều hòa trong mọi sinh hoạt và làm chủ ý nghĩ, lời nói cho đến hành động bằng sự định tĩnh sáng suốt. Nhờ vậy, hành giả dễ dàng chuyển hóa những tâm tư mê muội, tham lam, ích kỷ, ganh ghét, hận thù thành trong sáng, hiện thực mà tan hòa vào hư không. 
Phương pháp thứ tám là:
Biết kiên trì phục thiện,
Thân cận bậc hiền Thánh,
Siêng năng cùng tu học,
Là phước đức lớn nhất.
Đi chùa làm công quả, nghe lời Phật dạy, sám hối, tụng kinh, hoặc làm từ thiện để giúp đỡ mọi người và quán chiếu tham thiền v.v… chính là những việc làm cao thượng, có ích cho mình và người, mang lại phước đức cho hiện tại và mai sau. Có nhiều vấn đề mà tiền bạc không thể mua được, danh vọng không đánh đổi được và uy quyền không lung lạc được,và chỉ có học đạo, tham thiền mới có thể chuyển hóa được phiền muộn, khổ đau thành an vui, hạnh phúc thật sự. Ngày xưa, thái tử Sĩ Đạt Ta phải bỏ cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan, thần dân thiên hạ; và sau này, vua Trần Nhân Tông từ bỏ ngai vàng để tìm ra chân lý; nhờ siêng năng, tinh cần tu hành nên các Ngài dễ dàng buông xả các chấp mắc ở đời, để rồi cuối cùng thành tựu đạo pháp. Khi tâm đã an thì thế giới đều bình an, và chỉ có chuyên tâm học đạo mới có thể thành tựu phước đức to lớn này.
Trong đời có 2 hạng người: người thứ nhất chưa từng vấp phải lỗi lầm, luôn sống tốt và hoàn thiện chính mình về mọi mặt; người thứ hai như đa số chúng ta, vì si mê chấp ngã nhiều đời nên ta sống dễ làm tổn hại cho người và vật.Đối với bậc thiện hữu tri thức, nếu có duyên được gần gũi để học đạo giác ngộ giải thoát thì ta phải siêng năng, kiên trì, bền bỉ, dứt khoác buông xả thói quen xấu ác nhiều đời. Ngoài việc kiên trì học đạo, ta còn phải ra công làm việc, đóng góp, phục vụ đại chúng không biết mệt mỏi; nhờ vậy thói quen xấu dần hồi được tiêu trừ và phước đức tự thân càng thêm tăng trưởng.
Ở Thường chiếu, mỗi thiền sinh phải lao động cùng tu học như cái đỉnh ba chân. Học để hiểu lời Phật dạy, lao động để cảm thông được nỗi nhọc nhằn của đàn na tín thí mà chúng cố gắng tu cho tốt. Thiền sinh nào áp dụng thuần thục đầy đủ 3 điều kiện trên thì trước sau gì cũng sớm mau thành tựu đạo pháp. Thường xuyên gần gũi, thân cận bậc hiền Thánh, siêng năng tu học và kiên trì bền bỉ trong việc gạn lọc thân tâm; nhờ vậy tâm tham lam, ích kỷ được tiêu trừ; tâm ganh ghét, tật đố, nóng giận được chuyển hóa; tâm si mê, chấp trước thành vô lượng trí tuệ, từ bi.
Phương pháp thứ chín là:
Sống tinh cần tỉnh thức,
Biết quay lại chính mình,
Để sống đời giải thoát,
Là phước đức lớn nhất.
Trong quá trình hướng nội, thanh lọc thân tâm thì chứng đạt Niết bàn là phước đức lớn nhất. Sự siêng năng, chuyên cần tu tập, duy trì sự tỉnh thức thường xuyên là những nhân tố quan trọng để thành tựu đạo quả. Niết bàn là sự giải thoát khỏi tất cả những ràng buộc, phiền não, khổ đau, là ánh sáng phá tan bóng tối si mê để chấm dứt khổ đau của luân hồi sanh tử. Việc nên làm đã làm, gánh nặng đã đặt xuống rồi, hành giả thong dong, tự tại làm đẹp cuộc đời bằng cách dấn thân phục vụ tha nhân không biết mệt mỏi, nhàm chán với tinh thần vô ngã, vị tha.
Bản hoài của chư Phật là muốn cho chúng sinh được hoàn toàn giác ngộ và giải thoát; muốn vậy ta phải siêng năng, tinh cần gạn lọc thân tâm, phải kiểm soát chặt chẽ từ ý nghĩ, lời nói, cho đến hành động,không để cho chúng phát sinh trái phép.Người mới tu thì chăn giữ con khỉ ý thức của mình bằng 2 loại thiền Chỉ và Quán. Cái gì nương vào một chỗ thì ta gọi là chỉ, như niệm Phật hay quán hơi thở chẳng hạn. Quán là dùng nhận thức của mình xem xét, soi rọi để thấy rõ thân này và vạn vật luôn vô thường biến đổi. Thân thì 4 chất đất-nước-gió-lửa hòa hợp lại mà thành nên phải sinh-già-bệnh-chết. Vũ trụ,thiên nhiên thì thành-trụ-hoại-không. Cho nên, không có cái gì là thực thể cố định cả.
Trong đạo Phật có hai loại thiền Chỉ và Quán là phương pháp đối trị ban đầu. Chỉ nhiều thì được định.Nếu không có trí tuệ soi sáng thì hành giả dễ rơi vào si định. Quán nhiều sinh trí tuệ nhưng ta lại lăng xăng, không định tĩnh. Mỗi hành giả ứng dụng hai pháp Chỉ, Quán này thuần thục rồi thì ta quay lại pháp trung đạo, dùng tính biết sáng suốt của mình nương nơi mắt thấy biết rõ ràng mà không phân biệt đẹp xấu, thấy chỉ là thấy, tai-mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế. Đó là phước đức lớn nhất.
Phương pháp thứ mười là:
Làm việc cùng mọi người,
Tâm không hề thay đổi.
Não phiền dứt, an nhiên,
Là phước đức lớn nhất.
Với tâm giải thoát tự tại, hành giả an nhiên, bất động trước vô vàn biến động của cuộc đời như được mất, khen chê, tốt xấu, khổ vui, mà tự tại vào ra trong sanh tử để cứu độ chúng sanh. Làm đẹp cuộc đời, trang nghiêm đạo pháp như là sở hành của các vị Bồ tát, đây không chỉ là phước đức vẹn toàn cho một người mà tất cả chúng sinh cần phải biếp áp dụng, hành trì. Nhờ vậy, con người được nâng cao trình độ hiểu biết, xã hội giảm bớt tệ nạn xấu ác, cá nhân được tăng trưởng phước đức, gia đình sẽ sống trên thuận dưới hòa, và nhân loại được sống trong bình yên, hạnh phúc.
Thật rõ ràng xuyên suốt nội dung bản kinh, Thế Tôn chỉ dạy cách thức làm phước và chuyển hóa nội tâmmà không hề có chuyện xin xỏ phước đức. Cho nên, trong đạo Phật có chủ trương cầu nguyện, mà tuyệt đối không có cầu xin ban phước, giáng họa. Ta mỗi ngày có quyền cầu nguyện cho tất cả chúng sinh được sống bình an, hạnh phúc, cùng nhau chia vui sớt khổ, thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau bằng trái tim yêu thương và hiểu biết.Đức Phật là vị thầy dẫn đường, chỉ dạy cho ta biết được điều hay lẽ phải, tốt xấu, nên hư, thành bại trong cuộc đời, còn làm được hay không là do ta, ta phải tự mình thắp đuốc lên mà đi, thắp lên với chánh pháp. Khi mê thì Phật độ, khi biết được nguyên nhân dẫn đến luân hồi sinh tử thì ta phải tự tu tự độ. Phật không trực tiếp ban phước cho ta được bình yên, hạnh phúc. Ngài chỉ dạy phương pháp để chuyển hóa rồi chúng ta phải tự thực tập, hành trì để tạo ra phước đức vẹn toàn cho bản thân.
Mong ước được sống an vui, hạnh phúc chính là một sự phát nguyện vun bồi phước đức tự thân, được thể hiện qua sự chuyển hóa từ 3 nghiệp thân-miệng-ý theo hướng thiện lành, tốt đẹp. Do đó, bình an và hạnh phúc có thể tạo dựng ngay tại đây và bây giờ mà chẳng phải tìm cầu đâu xa.Phước huệ song tu là con đường dẫn đến thành Phật viên mãn. Tu phước không tu huệ, kiếp sau tuy giàu có nhưng lại bị ngu si. Tu huệ không tu phước, kiếp sau tuy thông minh nhưng lại bị nghèo khó. Phước huệ đều song tu thìthành Phật trong tương lai.
Cho nên, trong đạo Phật có 3 mục đích để chúng ta hướng đến tùy theo tâm tư, nguyện vọng của mọi người mà ta có quyền chọn lựa cho phù hợp với hoàn cảnh sống trong hiện tại.Mục đích thứ nhất là sống trong cõi Trời Người có phước báo, chấp nhận có khổ có vui mà cùng sống chung với mọi người.Mục đích thứ hai là thoát khỏi luân hồi sinh tử để được Niết bàn an vui vĩnh viễn.Mục đích thứ ba là giáo hóa chúng sinh để được thành tựu phước trí viên mãn, hay còn gọi là phước huệ song tu, đó là con đường hành Bồ tát đạo cho đến khi nào thành Phật viên mãn mới thôi.
Người cư sĩ bước đầu cần tu phước trước để ổn định đời sống gia đình, khỏi phải bận bịu lo toan cơm áo gạo tiền, nhờ vậy ta có thời gian quán chiếu, tham thiền. Gia đình là nền tảng của xã hội, không có gia đình thì xã hội cũng phải phế bỏ, nên tùy theo hoàn cảnh của mọi người mà ta biết áp dụng phước huệ song tu sao cho được vuông tròn, tốt đẹp.Ngày xưa có vị thầy giới luật trang nghiêm, tu hành tinh tấn, không lơ là giải đãi một ngày, do đó đã chứng quả giác ngộ giải thoát. Vì chỉ siêng tu trí tuệ cho riêng mình mà không giúp đỡ một ai, trong khi thầy đã thọ nhận của đàn na tín thí quá nhiều; do nhân quả như thế nên hiện đời thầy sống trong thiếu thốn, mỗi ngày chỉ khất thực được chút ít sống qua ngày. Bởi nghiệp lực quá khứ không gieo trồng nhân chia sẻ nên quả báo hiện đời không bao giờ có một ngày no đủ. Cho nên, nhân quả rất công bằng và bình đẳng, gieo nhân nào thì gặt quả đấy là vậy.Ngày nay, các Phật tử đến chùa ít ai có lòng tin nhân quả sâu sắc, mà chỉ một bề cầu xin thì nhiều. Cho đến bây giờ, tập tục cúng sao giải hạn ở các chùa vẫn cứ thịnh hành, vì quý thầy quá từ bi sợ Phật tử bỏ chùa không đến ủng hộ. Đại đa số Phật tử đến chùa cầu xin Phật, Bồ tát gia hộ nhiều hơnmà không biết gieo nhân nào để được gặt quả tốt.
Cũng đồng với vị thầy nói trên, một người bạn vì ham làm phước với quan niệm mong được giàu có để hưởng thụ mọi nhu cầu cần thiết, nên hiện tại bị đọa làm con voi trắng trong cung vua. Voi ta được trang sức lộng lẫy bằng thất bảo, chỉ để chở nhà vua và hoàng hậu mà thôi. Cuối cùng, một người nhờ có trí tuệ mà được giác ngộ giải thoát, nhưng vì không giúp ai nên cả đời đều chịu khó khăn, thiếu thốn. Người kia vì ham làm phước mà không chịu siêng tu trí tuệ, nên bị đọa làm con voi trắng trong cung vua. Chính vì thế, Phật dạy chúng ta phước huệ song tu để đi theo con đường Bồ tát đạo mà cùng nhau chia vui, sớt khổ trên tinh thần vô ngã, vị tha.
Sau khi Phật chỉ dạy 10 phương pháp để hành trì phước đức viên mãn, cuối cùng Phật khẳng định:
Ai sống được như vậy
Ở đâu cũng hạnh phúc
An nhiên và tự tại
Vì phước đức vẹn toàn.
Muốn được như thế thì mỗi hành giả phải phước huệ song tu. Làm phước để có cơ hội giúp đỡ mọi người, tu huệ để biết cách chuyển hóa 3 nghiệp tham-sân-si làm tổn hại người và vật thành vô lượng trí huệ, từ bi với tinh thần vô ngã, vị tha.
Để cho dễ hiểu, chúng tôi tạm thời phân ra làm hai vế phước đức và công đức. Làm phước là việc làm đóng góp, giúp đỡ bên ngoài về phương diện vật chất từ lời nói cho đến hành động. Công đức là cái tốt do tu tâm, khi làm việc giúp đỡ người khác mà ta bị bêu xấu, hủy nhục, nhưng vẫn bình tĩnh, thản nhiên, không hề có ý niệm phiền muộn phát khởi trong tâm. Ta nghe những lời chỉ trích vu khống đó như gió thoảng qua tai.Chúng ta cần phải thực hiện đầy đủ cả hai mặt phước đức, ta cần phải có tâm làm lợi ích cho người, và khi làm tâm ta không hề dính mắc vào việc gì. Đây là con đường của các vị Bồ tát đang ứng dụng và hành trì để được thành Phật trong tương lai. Nhờ vậy, ta lần hồi gội rửa bớt tâm tham lam,ích kỷ, hẹp hòi, tâm ganh ghét, tật đố, tị hiềm, sân hận, tâm si mê, bám víu vào cái ta không thực thể.
Trên thực tế, ta dường như thấy phước và đức tách biệt hẳn nhau, nhưng sự thật người có tâm hồn cao thượng mới dám bố thí cúng dường, giúp đỡ sẻ chia và ngược lại. Khi làm việc phước mà ta không chấp trước, dính mắc vào việc làm đó vì đã thanh lọc được tâm tư trong sạch, nên làm mà không thấy mình làm, tu mà không thấy mình tu, chỉ tùy duyên tùy thời mà làm phước tu tâm. Chính vì sự liên hệ mật thiết của việc làm phước và tu tâmgiúp các vị Bồ tát ý thức được trách nhiệm và bổn phận của mình, làm phước để có cơ hội giúp đỡ người, tu tâm để chuyển hóa tham-sân-si thành an vui, hạnh phúc. Ta muốn thành Phật thì không có con đường nào khác hơn là làm phước và tu tâm; nhờ vậy khi bố thí cúng dường ta chuyển hóa được tâm ích kỷ, tham lam, bỏn xẻn, keo kiết, tâm sân hận, si mê được giải trừ, để tâm từ bi, hỷ xả được lan tỏa khắp mọi nơi.Việc làm phước và thanh lọc nội tâm rất cần thiết cho hàng Phật tử chúng ta tùy theo hoàn cảnh của mọi người mà chúng ta biết cách áp dụng sao cho phù hợp, để phước và đức của tự thân ngày càng được tăng trưởng.
Ở đây, Phật chỉ dạy chúng ta rất cụ thể, rõ ràng. Trước tiên, ta muốn tu tâm dưỡng tính thì phải biết thân cận người hiền, lánh xa kẻ xấu ác, tôn kính bậc đáng kính. Kế đến, ta biết chọn môi trường tốt để làm các việc thiện lành, tốt đẹp; hay siêng năng học hỏi và giỏi nghề nghiệp chuyên môn nhờ biết gìn giữ đạo đức từ ý nghĩ, lời nói, cho đến hành động đều hướng thượng; biết hiểu thảo với cha mẹ, biết kính trên nhường dưới, biết chọn lựa nghề nghiệp chân chính, thích hợp; rồi đến sống vui vẻ, biết bố thí, giúp đỡ bình đẳng, không phân biệt mọi thành phần giai cấp trong xã hội; muốn vậy ta phải siêng năng làm các việc lành, tránh xa việc xấu ác, nhờ đó ta không say sưa, nghiện ngập, nên lúc nào cũng khiêm tốn,thấp mình học hỏi điều hay, lẽ phải; nhờ thông hiểu Phật pháp, ta biết“muốn ít biết đủ”, hài lòng với hoàn cảnh hiện tại và luôn nhớ ơn thầy tổ mà ráng cố gắng duy trì phước huệ song tu để thành tựu Phật đạo viên mãn.

THÍCH ĐẠT MA PHỔ GIÁC